Khi viết sách thực hành, tác giả nào không nhận ra điều này thì nội dung sách sẽ không hiệu quả. Chúng hỏi các câu hỏi hạng nhất và được viết chủ yếu dành cho các độc giả bình thường chứ không phải chỉ riêng cho các triết gia. Như vậy, họ vừa phải tiếp thu kiến thức bề nổi của cuốn sách, vừa phải cố gắng hiểu cuốn sách muốn nói gì.
Ở đây, chung tôi đang nói đến những khó khăn phải đối mặt khi một độc giả không tin vào các tín điều của một tác phẩm thần học phải đối mặt. Tác giả Galileo trong tác phẩm Two New Sciences (Hai ngành khoa học mới) đã nói về việc minh hoạ bằng các kết luận thử nghiệm rút ra từ phương pháp chứng minh kiểu toán học. Triết học giống khoa học và khác sử học ở chỗ nó thiên về tìm kiếm những chân lý phổ quát hơn là mô tả những sự kiện cụ thể dù ở quá khứ gần hay quá khứ xa.
Nhưng hầu hết những điều đã nói về việc đọc phân tích đều có thể áp dụng vào đọc đồng chủ đề với một số sửa đổi nhất định cho phù hợp sẽ được trình bày trong chương cuối cuốn sách này. Xét trên phương diện này, đây là kiểu đọc chủ động nhất. Nhưng câu hỏi cuối cùng (Ý nghĩa của cuốn sách là gì?) đòi hỏi người đọc phải có sự thận trọng nhất định.
Dù cho họ đọc nhanh đến mức nào, họ cũng không thể tiến bộ được nếu không biết mình đang tìm kiến điều gì và khi nào thì tìm thấy, mà điều này lại rất hay xảy ra. Chính đặc tính này của dữ kiện đã mang lại tiếng nói và phong cách cho bách khoa toàn thư. Đối với những cuốn sách viết theo cách khác hoặc thuộc lĩnh vực khác, khi tác giả không tự chỉ rõ các từ chuyên môn thì độc giả phải tự khám phá dựa vào kiến thức của bản thân.
Nếu lịch sử được đặt đâu đó giữa hai nhánh phân loại chính kia thì mọi người thường nhận xét rằng lịch sử gần với tác phẩm hư cấu hơn là khoa học. Mặt khác, một thuật ngữ đơn lẻ có thể được biểu đạt bằng nhiều từ khác nhau. Khi đã có kinh nghiệm trong việc thống nhất thuật ngữ với tác giả, bạn sẽ có khả năng tự kiểm tra xem mình có thành công hay không.
Lý do có thể vì độc giả đã có những tiền kiến nhất định về cách tiếp cận vấn đề của tác giả cũng như những kết luận cuối cùng ông ta đưa ra. Việc cho rằng sự thật sẽ mở ra qua những chống đối và xung đột là một cách nghĩ khá thông dụng thời Trung cổ. Ví dụ, niềm vui thích cực độ của nhiều thế hệ học sinh trung học khi đọc kịch của Shakespeare bị tiêu tan khi họ buộc phải tra từ điển tất cả các từ vựng mới, và học hết các chú thích uyên thâm.
Hai quy tắc trên cũng có thể được áp dụng để đọc bất cứ phần quan trọng nào hoặc đọc cả một cuốn sách mô tả. Các kỹ năng đọc tốc độ có thể giúp bạn giải quyết vấn đề này. Khi đọc tiểu thuyết, điều tương tự cũng diễn ra.
Có thể họ thích thật nhưng họ không thể nói cho người khác họ thích như thế nào hoặc điều gì của cuốn sách làm họ thích. Có thể bạn không đồng ý với quan điểm của tác giả về việc vấn đề nào là cơ bản nhưng dù sao bạn vẫn học được từ ông điều gì đó. Sau khi đặt câu hỏi cuốn sách chứng minh điều gì, bạn nên hỏi tiếp xem tác giả đang cố thuyết phục ai.
Chính vì vậy, người ta thường nói không gì ngoài hoạt động thực tiễn có thể giải quyết vấn đề thực tiễn và hành động chỉ có trong đời sống, không phải trong sách vở. Có bốn cách xem xét từ như sau: Tác phẩm cũng giúp bạn thấy chính xác đâu là cách đọc sách đích thực, cùng những giá trị và những niềm vui mà nó mang lại.
Đồng thời, giáo sư I. Việc này xuất phát từ những hiểu biết còn chung chung và khá mơ hồ về cuốn sách. Trong những chương trước, chúng tôi đã thảo luận kỹ việc đọc sách như thế nào là tích cực.