Một vật cản vô tình nào đó sẽ bị đập tan trong giận dữ. Một sự kiện đơn giản, đám đông chợt nhìn thấy, lập tức sẽ trở thành một sự kiện bị bóp méo. “Nền văn minh chẳng có sự cố định nào, bị phó mặc cho mọi ngẫu nhiên.
Nếu không có sự răn đe, bởi sự có mặt của các nhà chức trách làm công tác bảo vệ an ninh, nhiều khi người ta tiến hành bề hội đồng cả diễn giả. Sau đó thời gian đã hoàn tất tác phẩm của mình. Toàn bộ lịch sử chính trị, lịch sử tôn giáo, lịch sử nghệ thuật và văn học có vẻ như chứng minh cho thực tế đó.
Từ những quan sát trên đây có thể rút ra kết luận rằng, đám đông không thông minh hơn một con người độc lập. Chính điều này đã làm cho Lamartine năm 1848 và Thiers năm 1871 đạt được sự tín nhiệm mà đáng lý ra tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề mới là động cơ thúc đẩy. Một tâm hồn chung được hình thành, nó dĩ nhiên có thể biến đổi, nhưng hoàn toàn là một thể loại xác định.
Ý kiến của đám đông tỏ ra ngày càng có xu hướng trở nên người điều hành quan trọng đối với chính trị. Chính phủ phải tổ chức kinh doanh, phải lãnh đạo, phải bảo vệ. Đó là cái kết quả trung bình; cái thu được không bù lại nổi cái tổn phí.
Ngược lại nếu người ta trừ một lần vào lương hoặc vào thu nhập một khoản tiền thuế tương đương, về lý thuyết làm như vậy có thể mười lần nhẹ nhàng hơn cách thức kia nhưng nó vẫn gây nên sự phản kháng mạnh mẽ. Không phải các nhà triết học, các nhà thông thái, và trên hết không phải những kẻ hoài nghi đã tạo nên những tôn giáo lớn, là những tôn giáo đã ngự trị thế giới và ngự trị những đế chế vĩ đại trải rộng từ nửa địa cầu này sang nửa địa cầu khác. Hiện tượng như vậy ta cũng gặp ở trong thế giới đạo đức.
Giả như những đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày không phải là một dạng luật lệ vô hình đối với các tình huống, thì những chính thể dân chủ cũng sẽ không tồn tại được. Nó bắt các thế lực to lớn như những thế lực của đám đông phải phụ thuộc vào nó, những thế lực mà nếu không có nó sẽ không thể hình thành. Sau này, khi ông ta đến Southampton, các nhà thờ đã đổ chuông mỗi khi ông đi qua.
Nếu những sự kiện to lớn đó ít xảy ra, nó cũng có nguyên nhân của nó, đó là, trong một chủng tộc không có gì bền vững hơn là di sản tâm tư mà nó được kế thừa. Một chuỗi những sự nhận diện sai lầm bắt đầu hình thành. Chúng đã chết trước khi được biết đến một cách đầy đủ để có thể trở thành những ý niệm chung.
Thế kỷ 19 đã cho ta nhiều thí dụ về điều này. Người ta không bao giờ hiểu được hết những gì mà một ý chí mạnh mẽ và bền bỉ có thể làm nên. Ở các dân tộc Latinh khái niệm “dân chủ” trước hết mang ý nghĩa loại bỏ những ý chí và quyết tâm của cá nhân trước nhà nước.
Gắn liền với sự giáo dục và giảng dạy, tâm hồn đám đông sẽ trở nên cao quý hoặc bị thui chột. Sự thiếu vắng hoàn toàn khả năng xét đoán đã làm cho họ không thể nhận ra được các mâu thuẫn. Ở các dân tộc Anglo-Saxon cụ thể là nước Mỹ, cũng chính khái niệm ấy nhưng ngược lại nó mang ý nghĩa của một sự khuếch trương nồng nhiệt nhất về ước vọng và nhân cách cá nhân, về sự rút lui của nhà nước đến mức có thể, người ta không để cho nhà nước lãnh đạo một cái gì ngoại trừ công an, quân đội và ngoại giao, thậm chí giáo dục cũng không chịu sự lãnh đạo của nhà nước.
Bởi vì các sự kiện đẫm máu, tàn bạo và hỗn loạn đã làm ông ta sửng sốt, bởi vậy, dường như đối với ông ta những anh hùng trong các thiên sử ca lớn chỉ là một bầy người hoang dã động kinh, bán mình một cách không kiềm chế cho bản năng. Trong sự bừng tỉnh của các nền văn hóa này, một bầy đoàn những con người có nguồn gốc khác nhau, đã tình cờ quy tụ lại qua các cuộc hành trình, qua những cuộc tấn công và xâm chiếm. Đó cũng là điều không có trong các trường hợp phạm tội thông thường.