Nhiều ý kiến cho rằng cuốn Confessions (Xưng tội) của Rousseau viết vào khoảng giữa thế kỷ XVIII là tác phẩm tự truyện thật sự đầu tiên. Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4). Tên sách, tiêu đề mỗi chương và lời đề từ cũng phần nào giúp ích cho việc phân loại đó.
Đây là những cách sử dụng không đúng, không triệt để. Hiểu không chỉ là trả lời được những câu hỏi về dữ kiện của một bài đọc mà còn hơn thế nữa. Ngược lại, sẽ có những chênh lệch giữa hai bản đề cương.
Thứ ba, hãy quan sát những điều tác giả buộc phải thừa nhận, những điều tác giả có thể chứng minh hoặc đưa ra bằng chứng cụ thể và những điều tác giả cho rằng không cần chứng minh vì chúng đã quá hiển nhiên. Khi miêu tả nghệ thuật đọc kiểm soát, chúng tôi đã lưu ý bạn sau khi đọc trang đầu và có thể cả phần phụ lục, bạn không nên dừng lại mà nên đọc cả những đoạn văn có tính chất tổng kết hay tóm tắt xuyên suốt cuốn sách. Đứa trẻ đã là một độc giả trưởng thành theo nghĩa có thể đọc hầu hết mọi thứ, nhưng vẫn chưa được nhuần nhuyễn.
Nhiệm vụ đầu tiên là lọc ra một danh sách các tác phẩm cần nghiên cứu để tìm ra các phần liên quan và tạo thành một thư mục. Khi đó có nghĩa là bạn đã tạo nên thói quen thực hiện toàn bộ các thao tác. Bốn câu hỏi trên là những nguyên tắc cơ bản mà Phần hai cuốn sách này đặc biệt quan tâm.
Sách toán học thường đòi hỏi sự chính xác, rõ ràng. Nghĩ đến các hành động trí tuệ khó hơn nhiều. Không bao giờ là quá muộn để giải quyết các vấn đề về toán học.
Một phần là chúng ta không được dạy hoặc không được dạy sớm để biết rằng toán học là một ngôn ngữ và chúng ta có thể học nó cũng như học các môn khác. Bạn có thể kể lại kinh nghiệm nào của bản thân mà nhận định đó miêu tả, hoặc chỉ ra mức độ phù hợp giữa nhận định của tác giả với thực tế trải nghiệm của bạn không? Bạn có thể minh hoạ cho chân lý đã được phát biểu bằng những ví dụ cụ thể hay không? Tưởng tượng ra một trường hợp khả thi cũng hiệu quả không kém việc nêu ra một tình huống thật. Trình tự này phụ thuộc vào đề tài nghiên cứu nhưng chúng tôi có thể đưa ra vài chỉ dẫn.
Ý kiến này hiếm khi được nêu rõ trong các cuộc hội thoại, cho dù Socrates đã đề cập đến nó trong tác phẩm Apology (Lời tạ tội) khi ông khẳng định rằng cuộc sống không có kiểm soát thì không đáng sống. Dù những từ này không được tất cả các tác giả sử dụng với cùng một sắc thái ý nghĩa, nhưng chúng vẫn được coi là những từ chuyên môn khi đề cập đến một số vấn đề nhất định. Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu.
Tính thống nhất của một tác phẩm giả tưởng cũng được liên kết với vấn đề mà tác giả phải đối mặt, nhưng vấn đề đó thường là sự cố gắng chuyển tải những kinh nghiệm cụ thể nên tính thống nhất của một câu chuyện luôn nằm trong chính cốt truyện. Sau đây là một số cách bạn có thể dùng: Bài thơ cũng viết về mối xung đột giữa tình yêu và thời gian, mặc dù từ thời gian không hề xuất hiện trong bài.
Cách đơn giản này sẽ giúp loại bỏ những khó khăn gặp phải khi đọc tác phẩm. Khi tác giả thuyết phục được bạn rằng kết quả ông ta đưa ra là đáng coi trọng, và bạn tin những phương tiện tác giả đề xuất có thể dùng để đạt được kết quả đó thì bạn sẽ khó từ chối hành động theo cách tác giả mong muốn. Những ý kiến không được ủng hộ không có chỗ đứng ở đây, dù thực tế đôi khi chúng cũng ẩn mình trong đó.
Sự khác biệt giữa khám phá có trợ giúp và không có trợ giúp thể hiện rõ ở điểm này. Ví dụ, chúng ta hãy xem xét luận bàn của Aristotle về đức hạnh trong cuốn Đạo đức học. Nếu bạn không biết cách thông cảm khi đọc một quyển sách, sự bất đồng của bạn có thể mang tính chất tranh cái chứ không tế nhị hay lịch sự.